Cảm Nghĩ Của Phật Tử
Nhân Mùa Phật Đản P.L. 2555
Tâm Tường - Lê đình Cát
Hạnh phúc thay đức Phật giáng sinh, vi diệu làm sao một đóa Ưu Đàm mỗi ba ngàn năm mới nở một lần…Như vậy ngày Phật Đản sanh là ngày vui lớn cho cả nhân loại nói chung và đó cũng chính là ngày mà những người con Phật tưởng nhớ để mà làm lễ kỷ niệm.
Trong tinh thần đó chúng tôi mạo muội xin nêu lên một ý nghĩ rất chí ư là thiết thực nhưng cũng hơi táo bạo đó là: “Nhân mùa Phật Đản người Phật Tử nghĩ gì về đạo Phật trong thế kỷ 21”. Đây là một đề tài rất rộng mà trong một bài viết hạn hẹp này chúng tôi không thể trình bày được hết ý nghĩa mà chỉ nêu ra những điều suy nghĩ của riêng mình về những gì mà chúng tôi đã học hỏi và thu thập được qua những kinh sách cũng như những lần nghe giảng của quý chư Tôn Đức, Tăng Ni. Và viết ra đây, với một sự hiểu biết thô thiển của kẻ hậu học và mong quý độc giả quý vị thiện trí thức của Phật giáo hãy mở rộng tấm lòng bao dung mà chỉ giáo, nếu có điều gì không phải.
Hơn hai ngàn năm trăm năm về trước Đức Phật đã thị hiện trong đời.Ngài không phải là một đấng Thượng Đế tối cao hay là một vị Thần Linh.v.v…Mà Đức Phật chính là bậc thầy của những bậc thầy. Trong kinh sách có dạy:
“ Thiên nhơn cho đạo sư, tứ sanh chi từ phụ”.
(Thầy của trời và người, Cha lành của bốn loài).
Ngài giáng sinh trong dòng tộc Thích Ca (Sàkya), họ Cồ Đàm (Gotama), là con của Vua Tịnh Phạn (Suddhodana) và Hoàng Hậu Ma Da (Mahàmàyà). Ngài là Thái Tử Tất Đạt Đa tại thành Ca Tỳ La Vệ thuộc xứ Trung Ấn. Hoàng Hậu Ma đã sinh nhằm vào ngày rằm trăng tròn xứ Ấn Độ dưới gốc cây Vô Ưu , trong vườn Lâm Tỳ Ni, (nơi mà Hoàng Hậu Ma Da đang dạo chơi). Có một điều rất kỳ lạ là lúc Hoàng Hậu Ma Da sinh Ngài thì quả đất chuyển động bảy lần, nhạc trời đã reo vang khắp chốn, chim muông ca hót líu lo và tất cả cây cối đều trổ hoa, nói chung là tất cả vạn vật đều tưng bừng vui tươi chào đón một con Người siêu phàm xuất thế, một Đấng Chí Tôn vừa đản sanh…Và cũng theo nhiều kinh luận ghi lại, thì khi vừa mới sanh ra Thái Tử Tất Đạt Đa đã bước đi bảy (07) bước trên Hoa Sen, một tay chỉ lên trời và một tay chỉ xuống đất Ngài đã thốt lên :
“Ngã sanh thai phấn tận
Thị tối mật hậu thân
Ngã dỉ đắc giải thoát
Dương phục độ chúng sanh”
Và câu:
“Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn”.
Cũng từ con người kỳ lạ ấy Ngài đã có đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, đến khi lớn lên thì thông minh quán chúng tuyệt vời, văn võ song toàn, tài năng đức độ không ai sánh kịp.
Đức Phật sanh vào khoảng thế kỷ thứ VI trước Tây lịch, mặc dầu Ngài là một vị Thái Tử sống trong cung điện nguy nga, giàu sang tột đỉnh đầy những sự xa hoa, lộng lẫy và cũng được sự thương yêu, chiều chuộng săn sóc của Vua Cha và bà (kế mẫu) là dì ruột Vương Phi Ma Ha Bà Xà Bà Đề (mẹ Ngài là Hoàng Hậu Ma Da đã mất khi Ngài mới được 07 ngày). Trước những lời tiên đoán của A Tư Đà, đã làm cho Vua Cha Tịnh Phạn sợ Thái Tử sẽ xuất gia tìm Đạo giải thoát, nên năm Thái Tử vừa 17 tuổi Ngài đã vâng lệnh Vua Cha Tịnh Phạn thành hôn cùng Công Chúa Da Du Đà La (Yasodharà), và sanh được một một người con trai tên là La Hầu La (Ràhulà). Mặc dầu Ngài ở trong cung điện nguy nga, tráng lệ với nếp sống giàu sang, phú quý, hạnh phúc tràn đầy; nhưng trong lòng của Ngài luôn luôn buồn rầu và Ngài muốn tiếp xúc với thế giới bên ngoài để biêt được cuộc sống của thế gian như thế nào. Vì thế nên sau nhiều lần cầu xin Vua Cha Tịnh Phạn đành phải cho Thái Tử ra ngoại thành dạo chơi. Được tiếp cận với cuộc sống xô bồ của xã hội bên ngoài và nhờ đó mà Ngài đã nhìn thấy được sự bất công của đời và sự khổ đau của mọi người, mọi loài đang sống ở xung quanh mình…Nào là bệnh tật, già yếu, chết chóc.v.v…Tất cả những sự kiện trên đã để lại trong lòng Ngài một nổi u buồn, một sự thương xót cho chúng sanh. Cũng vì chứng kiến được những cảnh trên nên khi trở về hoàng cung ngài luôn ưu tư, lo lắng và ray rứt trong lòng, từ đó Ngài đã cố tìm đủ mọi cách để hầu mong cứu vớt chúng sanh thoát khỏi cảnh khổ đau của đời: “sanh, lão, bệnh, tử”, để mong sao cho chúng sanh có được một cuộc sống an lành, hạnh phúc.
Sau nhiều đêm suy nghĩ, Ngài quyết định phải xuất gia tìm đạo cứu khổ cho chúng sanh. Nửa đêm mồng tám tháng hai Âm Lịch, sau buổi yến tiệc linh đình của hoàng cung, mọi người đang say ngủ Ngài từ giả Vua Cha, vợ con và hạnh phúc gia đình, cùng với Xa Nặc thắng ngựa Kiền Trắc đã vượt thành ra đi tìm chân lý cứu độ nhân loại. Lúc ấy ngài được 19 tuổi.
Sau ba lần hỏi Đạo, Thái Tử nhận thức rằng các Đạo hiện hành không có Đạo nào là chân chánh giải thoát. Ngài nghĩ phải tự mình tu tập mới tìm ra chân l ý đạo giải thoát. Đến rừng Ưu Lân Tân Loa phía Nam núi Tượng Đầu, bên sông Ni Liên Ngài cùng năm anh em Kiều Trần Như tu khổ hạnh. Trong sáu năm khổ tu tìm đạo Ngài nhận thấy rằng tu khổ hạnh chưa phải là Đạo giải thoát. Ngài bèn đến sông Ni Liên tắm rửa sạch sẽ, rồi đến gốc cây Bồ Đề trải cỏ làm nệm, ngồi tọa thiền và thề rằng: Nếu ta không chứng được đạo giải thoát thì thề trọn đời không rời khỏi cây Bồ Đề này.” Sau 49 ngày ngồi kiết già tu khổ hạnh ở dưới gốc cây Bồ Đề đến đêm mùng tám tháng mười hai Thái Tử chứng Đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Giây phút đầu tiên khi Ngài đã Chứng Đạo với lòng từ bi Ngài đã cất tiếng:
“Lạ thay! Lạ thay!” Không ngờ tất cả chúng sanh đều có đủ trí tuệ, đức tướng Như Lai, chỉ vì vọng tưởng, chấp trước mà không chứng được đạo quả nếu bỏ vọng tưởng thì trí tuệ sẽ hiện tiền đầy đủ.”
Con đường giải thoát chính là con đường Trí Tuệ. Vậy Phật ngộ đạo chỉ là thâu hồi toàn vẹn đức tướng Như Lai. Sự thâu hồi đó chẳng đòi hỏi một khoảng thời gian nào cả, nên nói Ngộ là Đốn Ngộ.
Sau khi đã chứng quả đắc Đạo Đức Phật Thích Ca đến vườn Lộc Uyển để thuyết pháp Bốn Đế “Tứ Diệu Đế” (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) cho năm người bạn cùng tu khổ hạnh là nhóm Tôn Giả Kiều Trần Như và họ đã trở thành là những vị đệ tử đầu tiên của Phật, để từ đó mới có đủ ba ngôi báu là: Phật, Pháp và Tăng (Phật chính là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni – Pháp là Pháp Tứ Diệu Đế - Tăng là năm anh em Tôn Giả Kiều Trần Như vậy). Cũng trong khoảng thời gian này Đức Phật hoàn toàn sống trong sự tỉnh lặng, sáng suốt, nhiệm mầu của Chân Lý mà Ngài đã chứng quả. Ngài trở về hoàng cung thăm Vua Cha, vợ con và sau đó Ngài bắt đầu đẩy bánh xe Chánh Pháp chuyển lưu khắp cùng trong vùng lưu vực sông Hồng, qua các đô thị như: Vương Xá, Xá Vệ, Ba Na Lại, Ca Tỳ La Vệ. v.v…đề truyền giảng giáo pháp mà Ngài đã chứng ngộ cho chúng sanh.
Trong thời gian hơn 49 năm Đức Phật đi hoằng pháp; Đức Phật là một vị Giáo Chủ đầy năng lực trong lịch sữ nhân loại. Mặc dầu trong tay Ngài không có một thứ khí giới, trong túi Ngài không một mũi tên, sau lưng
Ngài không có một đội quân hùng, tướng dũng, trên Ngài
không có một vị Thần chủ tể, chỉ với hai
bàn chân đạp đất Đức Phật đã bước những bước khoan thai, Ngài không dừng nghỉ ở
một chổ nào nhất định. Ngài đi khắp nơi từ thành thị phồn vinh, đến thôn quê nghèo nàn hẻo
lánh chỗ nào cũng có dấu chân của Ngài
với một tấm lòng từ bi, Ngài đem đạo giác ngộ để giảng dạy cho chúng sanh và
với một mục đích duy nhất mong sao cho chúng sanh thấu hiểu và tu tập để thoát
khỏi khổ đau của đời. Và cũng từ tấm lòng từ bi độ lượng đó mà Ngài đã chinh
phục được các vị Vua Chúa, các bậc Đạo Sĩ Bà La Môn, Ngài đã cảm hóa được mọi
người và Ngài cũng hóa giải được sự bất hòa giữa các tôn giáo và các thế lực
phân chia của 62 trường phái triết học đương thời ở trong một xã hội phong kiến vô cùng phức
tạp và bất công của xứ Ấn Độ thời bấy giờ. Đồng thời Ngài đã độ cho vô số đệ tử
đủ mọi tầng lớp mà Ngài đã không mảy may phân biệt.
Ngài chỉ muốn cố gắng đem
Đạo vào Đời để chỉ dạy cho mọi người và luôn luôn đặt địa vị xứng đáng của con
người trên hết để gíải phóng cho họ. Ngài không công nhận những dị biệt về tầng
lớp giai cấp (giàu nghèo), hay tập quán kỳ thị của xã hội Ấn Độ thời bấy giờ là
một quốc gia Thần Giáo do vậy những giai cấp quý tộc và nô lệ phân chia khoảng
cách quá ư khắc nghiệt. Vì họ luôn luôn đề cao quan niệm và tư tưởng sống của
giòng quý tộc mà chèn ép, áp bức sự sống của hạng người nô lệ và xem họ là những
hạng người bần cùng, ty tiện của xã hội.
Theo Ngài, tự do tư tưởng rất cần thiết, và sự giải thoát con người tùy thuộc vào sự trực nhận chân lý, chứ không phải ân huệ của một đấng Thượng Đế hay một vị Thần Linh cũng không phải do một quyền năng nào khác ban phát cho. Ngài chỉ muốn những giáo pháp của Ngài giảng dạy đến chúng sanh tùy theo căn cơ, trí tuệ và trình độ của từng lớp đại chúng và hầu mong sao cho mọi người được thấu triệt giáo lý của Ngài và nhận thức thực tiển để ứng dụng vào chính đời sống của họ hầu mong giải thoát sự khổ đau của đời mà chính bản thân họ đã vương mang.
Sự xuất hiện của Đưc Phật Thích Ca Mâu Ni không ngoài mục đích đem trí tuệ giác ngộ soi sáng màn đêm đen tối đang bao phủ tâm hồn con người, Ngài đã chỉ dạy rõ dục vọng và vô minh là nguyên nhân của khổ đau mà con người luôn vương mang và từ đó Ngài đã mở cho chúng sanh con đường Đạo để chúng ta tự khai sáng. Đó là phương pháp để cho nhân loại tự mình giải thoát khổ đau, khai mở trí tuệ và sống thực với một tấm lòng tràn đầy từ bi…Tức là biết yêu thương tất cả chúng sanh. Mặc dầu Ngài hiện thân như là một con người bình thường nhưng tâm hồn hoàn toàn siêu việt. Ngài từng giảng và khuyên tất cả mọi người:
“Các con hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, hãy xem Giáo Pháp của Như Lai như chiếc bè đưa người qua bờ giác” hãy tinh tấn tu học.
Các con sẽ đạt đến sự giác ngộ, vì
“Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành.”
Với tinh thần bình đẳng tuyệt đối vô ngã, con người không còn tranh chấp, không còn kiêu mạn, không còn nhìn tha nhân bằng cặp mắt kẻ cả mà biết đối xử hết sức khiêm cung. Không có lời nào thể hiện tinh thần phóng khoáng, tự do bằng lời của Phật.
Ngài đã nói:
“Chớ vội tin lời ta nói”
Trong khi lời của Ngài dù chỉ thực hiện một phần nhỏ cũng đủ hạnh phúc cả một đời. Hiểu được giáo lý vô thường, thực hiện được tinh thần vô ngã, con người mới thông suốt và thể hiện được tinh thần bình đẳng.
Như vậy Phật giáo đã nêu cao tinh thần tự tin của con người bằng cách dạy rằng:
“Số phận của con người do chính con người tạo dựng nên: Phiền nảo, đau khổ hay là sung sướng, hạnh phúc tất cả những điều đó chính con người đủ tiềm lực để phát triển theo chiều hướng thiện, ác tùy theo những nhân, quả mà mình đã gieo và sẽ gặp, và sự Nhân, Quả đó sẽ ảnh hưởng đến chính cuộc sống hiện tại của mình và sẽ tạo cho chính mình có một Tâm Thiện hoặc Ác chứ không một ai khác hơn được”.
Đức Phật không phải là người ban phước giáng họa đức Phật cũng không cứu rỗi cho ai, cho nên muốn phát triển những đức tánh tốt đẹp, tính tự trọng, lòng từ bi, khoan dung, độ lượng, sự tự tin tất cả đều lồng trong một trí tuệ sáng suốt; đó chính là những đức tánh tốt đẹp mà mỗi con người chúng ta phải trân quý và cần được phát triển để hầu có thể tạo được cho nhân loại ở thế gian này có được một cuộc sống an lạc, hạnh phúc và hòa binh; đó chính là nhờ vào ảnh hưởng của giáo lý Phật đà.
Như vậy trong mùa Phật Đản năm nay, không hẳn là để chúng ta tưởng nhớ đến Đức Phật giáng thế mà đem lại sự an lạc cho con người, nhất là những người con Phật; mà đích thực là làm sống mãi hình ảnh, nhân cách và giáo pháp của Ngài để khơi mở và hoán chuyển tâm năng bằng sự giác ngộ chính ở tâm của mỗi một con ngưòi chúng ta.
Vì vậy đã là những người con Phật chúng ta có bổn phận phát huy rộng rải và duy trì giáo lý Phật đà để mọi người cùng hiểu và noi theo, thực hành để đem lại sư an vui hạnh phúc cho tất cả nhân loại.
Chắp tay đảnh lễ muời phương chư Phật, chư đại Bồ Tát.
Mùa Phật Đản, P.L. 2555
Tâm Tường - Lê Đình Cát