Thánh thi Thiên Y A Na (Bà Chúa Ngọc) là ai, được tôn vinh ở đâu?

Bạn đang đọc bài viết Thánh thi Thiên Y A Na (Bà Chúa Ngọc) là ai, được tôn vinh ở đâu? trên Mục Vụ Giáo Dân

Mặc dù chỉ là một vị thần theo truyền thuyết, nhưng thánh thi Thiên Y A Na đã được người dân Việt và người Chăm tôn thờ. Bà Chúa Ngọc đã nhận được sự tôn trọng từ nhà Nguyễn – vua Gia Long, được coi là “Hồng nhân phổ tế linh ứng Thượng đẳng Thần”.

Thánh thi Thiên Y A Na (Bà Chúa Ngọc) là ai, được tôn vinh ở đâu?

Truyền thuyết về Bà Thiên Y A Na

Như được ghi trên bia kỷ niệm tại Tháp Po Nagar, Nha Trang, do Tiến sĩ, Hiệp biện Đại học sĩ, Lễ bộ Thượng thư Phan Thanh Giản soạn vào ngày 05 tháng 5 năm Tự Đức thứ 9 (1857) – phiên bản của Quách Tấn – ông bà Lê Vinh biên soạn năm 1970, câu chuyện như sau:

Xưa kia tại núi Đai An (nay có nghĩa là Đại Điền) có một cặp vợ chồng ông Tiều đến đó xây nhà và trồng dưa trên triền núi. Dưa luôn chín mà thường bị mất. Một ngày, ông nhìn thấy một thiếu nữ xinh đẹp 19 tuổi đang hái dưa và đùa giỡn dưới ánh trăng. Ông bắt gặp cảnh tượng này và mê mẩn trước nhan sắc của cô gái, ông đưa cô về nhà nuôi và yêu quý như con ruột.

Một ngày nọ, khi trời mưa lũ lụt, cảnh vật trở nên u ám, cô gái lấy đá chất thành ba viên đá giả lành và ghim hoa lá vào, sau đó thưởng thức vui vẻ. Ông Tiều không thích hành động này và đã la một cách nặng nề. Ông không biết rằng cô gái đó là một tiên nữ giáng trần đang nhớ về nơi Bồng Lai. Buồn bã vì sự không hợp lý của mình, tiên nữ đã biến hình thành một khúc kỳ nam và đặt trên sóng để sóng cuốn đi. Khúc ca chảy ra biển cả và sau đó bị cuốn vào đất Trung Hoa. Mùi hương thơm từ kỳ nam đã được cuốn vào thiên hạ. Mọi người đã nhìn thấy vật liệu tốt và đã cố gắng che giấu nó, nhưng không ai đủ khả năng làm như vậy.

Thái tử Bắc Hải nghe nói điều này và đã đến để xác minh. Anh ta thấy khúc gỗ không lớn lắm, nên anh ta đã thử nâng lên bằng tay. Bất ngờ, gỗ nhẹ như tờ giấy! Anh ta đã đưa vật liệu này về cung điện và coi nó như một vật thần linh.

Một đêm, dưới ánh trăng mờ, thái tử thấy bóng của một cô gái nhỏ ẩn hiện bên cạnh khúc kỳ nam. Nhưng khi anh ta lại gần, không có gì ngoài mùi hương nhẹ nhàng từ khúc kỳ nam thoát ra. Anh ta tò mò và tiếp tục theo dõi. Đúng như vậy, sau một số đêm, một người đẹp xuất hiện từ khúc kỳ nam theo con gió. Thái tử chạy lại và ôm chặt người phụ nữ. Trước khi anh ta kịp hoán đổi, người phụ nữ biến thành một tiên nữ và cùng thái tử trở về cung điện, và câu chuyện đã được kể rõ. Người phụ nữ đó chính là Bà Thiên Y A Na.

Thái tử lớn lên nhưng vẫn chưa tìm được người phù hợp để làm vợ. Khi thấy Thiên Y A Na xinh đẹp và khác thường, anh ta đã yêu cầu ông cha để cầu hôn. Vua đã sai người đoán ngày tốt. Sau đó, họ đã tổ chức lễ cưới.

Hai người sống hạnh phúc và sinh được hai đứa con, một trai và một gái, đều rất xinh đẹp.

Sau một thời gian, gia đình quyết định quay về quê cũ. Khi trở về núi Đại An, ngôi nhà của ông Tiều đã không còn và ông bà đã mất. Thiên Y A Na đã xây đền để thờ tự và sửa sang nhà cửa. Thấy dân địa phương còn thiếu sự văn minh, Bà đã giúp họ tiến bộ: dạy bày cấy, dệt vải… và sáng tạo các nghi lễ. Nhờ vậy, ruộng đồng mở rộng, cuộc sống hàng ngày trở nên giàu có và phong cách. Điều này không chỉ diễn ra trong cộng đồng địa phương, mà còn lan rộng sang các vùng lân cận.

Một năm sau đó, vào một ngày tốt đẹp và không mây, một con chim hạc từ bầu trời bay xuống, Bà cùng hai đứa con đã bay lên lưng hạc và trở về làng. Người dân địa phương biết ơn Bà và xây dựng Tháp để tôn vinh Bà. Và hàng năm, vào ngày Bà trở thành tiên sứ, lễ hội múa bóng và dâng hoa được tổ chức trọng thể để tri ân và tưởng nhớ.

Ở Bắc Hải, Thái tử đã mong chờ mong chờ, không thấy vợ và con trở về, vì vậy anh ta đã sai quân đội để tìm kiếm ở Đại An. Khi đến nơi, Thái tử đã thấy Bà giả hạc. Quân đội đã tấn công, và dân địa phương đã bị đánh bại vì tưởng rằng họ đang che giấu vợ và con của Bà. Đau đớn và đau đớn, dân địa phương đã xây dựng đền thờ và tôn vinh Bà. Ngay sau đó, một cơn giông bão đã đổ xuống, đánh chìm tàu của Thái tử Bắc Hải.

Theo truyền thuyết của nhân dân xưa, các viên đá trước cửa Tháp Bà (còn được gọi là Tháp Poh Nagar ở Nha Trang), giữa cửa sông Cù, là những viên đá đã đánh chìm tàu của Thái tử Bắc Hải.

Dấu tích của các ngôi Tháp, văn hóa Chăm Pa

Xưa kia, ở khu vực Tháp Bà, đã xây dựng một số ngôi tháp từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 13. Một số công trình đã bị hư hỏng, chỉ còn lại 4 ngôi tháp, trong đó ngôi tháp lớn nhất là Tháp Pho Nagar, thờ Bà Mẹ Xứ của người Chăm, là người đã dạy dân Chăm cách trồng lúa và các loại hoa. Người Việt ở Nam Trung bộ còn gọi vị thần Thiên Y A Na là Bà Chúa Ngọc.

Thánh thi Thiên Y A Na (Bà Chúa Ngọc) là ai, được tôn vinh ở đâu?

Tháp Po Nagar hay Tháp Bà nằm trên đỉnh một ngọn đồi nhỏ cao khoảng 50 mét so với mực nước biển, ở cửa sông Cái (sông Nha Trang) tại thành phố Nha Trang, cách trung tâm thành phố khoảng 2 km về phía bắc, thuộc phường Vĩnh Phước. Tên gọi “Tháp Po Nagar” thường được sử dụng để chỉ tổng thể công trình kiến trúc này, nhưng thực tế tháp lớn nhất được gọi là Tháp Poh Nagar, có chiều cao khoảng 23m.

Ngôi tháp này được xây dựng trong thời kỳ đạo Hindu phổ biến khi người Chăm đang trong giai đoạn có tên là Hoàn Vương Quốc, nên tượng của nữ thần được gọi là Umar, vợ của Shiva.

Ngọn tháp thứ hai được gọi là Tháp Cricamblu trên tầng trung. Tháp này được xây từ thế kỷ thứ VII và trong tháp có một tượng bằng vàng. Vào cuối thế kỷ thứ VIII, người Mã Lai xâm lược Kaut Hara, cướp tượng vàng và phá hủy ngọn tháp. Vua Satyavarman đã xây dựng lại tháp và tạo ra một tượng đá để thay thế tượng vàng. Đây chính là Tháp Thái tử Bắc Hải và Bà Thiên Y A Na.

Ngọn tháp thứ ba cạnh hai tháp trước, thờ thần Linga, biểu hiện của thần Sandhaka. Đây là Tháp Ông Tiều, tức người cha của Bà Thiên Y.

Ngọn tháp thứ tư đứng phía sau tháp thờ Bà Thiên Y. Trong tháp không có tượng, chỉ có nền đền để thờ (có lẽ đã mất khi người Mã Lai xâm lược). Tháp này thờ thần Ganeca. Được thờ chung với Bà Thiên Y ở Tháp thứ ba. Hoàng tử Trí được thờ chung với Công chúa ở tháp thứ tư.

Còn hai ngôi tháp còn lại, nằm phía sau hai ngôi tháp trước đó. Đó là tháp thờ Bà Tiều, nghĩa là mẫu của Bà Thiên Y và Hoàng tử Trí. Tháp đã bị hư hỏng, chỉ còn lại nền… Nên Bà Tiều được thờ cùng Ông Tiều trong tháp thứ ba. Hoàng tử Trí được thờ cùng Công chúa ở tháp thứ tư.

Ở phía trước tháp, dưới chân đồi, có một hàng cột cao lớn được làm bằng gạch. Được nói rằng đó là những cột để xây sân vận đài. Mỗi khi diễn ra lễ hội, mọi người đặt một sàn gỗ lên các cột để biểu diễn. Vũ công và diễn viên biểu diễn trên sàn gỗ. Thần trên tháp nhìn xuống, trong khi nhân dân dưới đứng nhìn lên.

Hàng năm, trong đêm giao thừa, không khí đặc biệt xuất hiện tại khu vực Tháp Bà. Khi mùa xuân đến, mọi thứ thay đổi, thời tiết từ lạnh dần trở nên ấm áp. Mọi người có thể cảm nhận được mùi hương thơm nhẹ nhàng. Đó là mùi hương của kỳ nam, trầm từ rừng sâu, kết hợp với mùi nhang và hoa từ ngôi làng và chùa xung quanh, tạo ra một không gian thơm ngát và bí ẩn.

Thánh thi Thiên Y A Na (Bà Chúa Ngọc) là ai, được tôn vinh ở đâu?

Theo người Chăm, Pô Yang Inư Nagar Kaut Hara có nghĩa là Thiên Y Na Thánh thi, Mẹ Xứ Sở của dân tộc Kaut. Pô là danh xưng dành cho vị thần linh thiêng, được dịch từ Thiên. Yang có nghĩa là Trời, Thần (cũng được sử dụng bằng âm vỡ Giàng theo người Êđê) và Inư có nghĩa là mẹ đã mất, Nagar có nghĩa là xứ sở, đất nước. Inư Nagar đã được phiên âm thành YaNa. Kaut Hara là dân tộc Kaut.

Hình tượng Poh Nagar

Thiên thần chính Poh Nagar được tôn thờ tại Tháp, có hình dạng của Mẹ Xứ Sở với đá màu xanh nguyên khối, tập trung chủ yếu trên tầng tháp trung tâm. Tượng này là một tác phẩm điêu khắc tuyệt đẹp của người Chăm, từng thống trị khu vực này từ thế kỷ thứ mười. Tổng chiều cao của tượng và nền đế là 2,60m, với chiều cao tháp trung tâm khoảng 22,40m, khi nhìn từ mặt trước, có thể thấy rằng tượng có tới 10 cánh tay, bao gồm 2 cánh chính và 8 cánh phụ nằm phía sau được thiết kế giống như lá sen. Điều này thể hiện tính đa năng của tượng.

Hai cánh tay chính được đặt trên đầu gối, tay trái mở ra để tạo cảm giác tiếp nhận, tay phải thẳng đứng, lòng bàn tay hướng lên phía trước, tạo cảm giác an ủi. Ý nghĩa chung là mang lại sự an lành và hạnh phúc cho mọi người ở mọi nơi.

Tám cánh tay phụ giữ mỗi cánh tay một vật khác nhau như: kiếm ngắn, mũi tên, mặt trời Sakra, mũi giáo, chuông nhỏ, roi, tay và vỏ sò, cung và tảng đá. Các cánh tay này tạo thành hình quạt, rất sống động. Tất cả các đối tượng này đại diện cho quyền lực và trí tuệ của Nữ thần.

Pho tượng đặt trên một yoni lớn, mỗi cạnh dày 150cm, được làm từ nhiều lớp đá xếp chồng lên nhau như một khối đá nguyên khối. Tượng cao 154cm, không mặc áo, hai bầu ngực căng tròn, bụng có nhiều nhăn nheo, chứng tỏ đã trải qua nhiều kỳ sinh nở, và mặc một chiếc váy dạng xà rong. Toàn bộ tượng với đường nét tinh xảo, linh hoạt, thanh thoát và tràn đầy sức sống, tạo ra một ấn tượng gần gũi nhưng không mất đi sự trang trọng.

Truyền thuyết về nữ thần Poh Nagar của người Chăm

Theo truyền thuyết của người Chăm, nữ thần Poh Nagar được sinh ra từ bọt biển và mây trời. Một ngày nọ, biển dâng lên, đưa Bà vào bến sông Yjatran ở Kauthara (Cù Huân). Sấm chớp và gió thổi liên tục để thông báo cho loài người biết rằng Bà đến thế gian. Ngay lập tức, nước trong suối dồn lại và tạo thành một con sông để chào đón Bà, và ngọn núi cũng hạ đầu xuống để đón Bà.

Khi Bà bước lên bờ, cây cỏ cúi xuống để bày tỏ lòng tôn kính, chim diều đến chào đón hai bên đường, và hoa cỏ cũng thúc đẩy để tạo hương thơm cho từng bước chân của Bà. Sau đó, nữ thần Poh Nagar sử dụng phép thuật biến chú hình thành một cung điện đẹp đẽ, biến thành hương trầm và cát vàng… Trên hết, Bà có nhiều quyền năng kỳ diệu.

Bà đã có rất nhiều chồng từ các hoàng tử trong hậu cung, tổng cộng có đến 97 người. Tuy nhiên, chỉ có Pô Yan Amo là quyền lực nhất. Dù sống với tất cả những người chồng đó, Bà chỉ sinh được 38 cô con gái. Các cô gái sau đó đều trở thành các thần, trong số đó có ba người được truyền nhiều quyền lực:

1. Nữ thần Xứ Trầm hương: Pô Nagar Galâu.

2. Nữ thần vùng Phan Rang: Pô Tdara Nai Anaith.

3. Nữ thần vùng Phan Thiết: Pô Bia Tikuk.

Truyền thuyết về nữ thần Poh Nagar của người Chăm và truyền thuyết về Bà Thiên Y A Na là hoàn toàn khác nhau.

Sự tích nữ thần Poh Nagar của người Chăm thể hiện chế độ mẫu hệ của người Chăm trong quá khứ.

Sự tích Bà Thiên Y A Na của người Việt thể hiện tinh thần dân tộc sâu sắc, tràn đầy lòng yêu thương, và cho thấy rằng người xưa coi trọng đồng bào hơn cả gia đình. Đây là truyền thống tốt đẹp của dân tộc chúng ta.

Lễ hội Am Chúa ở Khánh Hòa

Lễ hội Am Chúa được tổ chức từ ngày 01 đến ngày 03 tháng 3 âm lịch hàng năm tại Am Chúa, núi Đại An, xã Diên Điền, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa.

Related Posts

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *