Hòa Thượng Rastrapal
Cuộc sống sau cửa tử và sự hiện hữu của không gian bốn chiều là hai nan đề đã
làm điên đầu bao triết gia, tâm lý gia, và các học giả về bản chất con ngườị Có
nhiều quan điểm khác biệt đã được nêu lên, nhưng tựu trung, tất cả đồng ý rằng
chúng ta đều phải chết. Thêm vào đó, người hấp hối thường có những cử chỉ lạ
lùng như thể họ đang sống trong một thế giới nào khác mà chúng ta không cảm
nhận được. Lúc đó, dường như họ đang sống trong ảo tưởng. Thế nhưng, nếu quan
sát một cách tường tận, chúng ta có thể sẽ thấy rằng những "ảo tưởng"
đó tuy khó tin nhưng có thật. Nhiều năm trước đây, là một nhà sư, tôi chứng
thực được điều đó khi đứng cạnh giường của một người đang hấp hốị Kinh nghiệm
này đã chấn động tinh thần tôi đến độ sau đó tôi phải bỏ công tìm tòi học hỏi thêm các khái
niệm về chư Thiên trong Kinh Tam Tạng Phạn ngữ (Pali).
Qua lời thỉnh cầu của chư Phật tử bốn phương, tôi xin viết lại câu chuyện trên
với hy vọng rằng câu chuyện này sẽ trả lời được phần nào các thắc mắc đô Nơi
đây, tôi xin cám ơn sự khích lệ và đóng góp vào cuốn sách nhỏ này của các Ngài
Thiền sư Munindra, Tiến sĩ Arabinda Barua, Giáo sư Sunil Barua, và Bà Krishna
Baruạ
Tỳ Kheo Rastrapal
-oOo-
Câu chuyện tôi sắp kể ra đây xảy ra vào năm 1957. Lúc đó tôi thọ giới tỳ kheo
được bốn năm. Tôi hoan hỉ hăng say học Phật Pháp. Trong đó, có câu chuyện về
Phật tử Dhammika trong quyển Chú giải Kinh Pháp Cú làm tôi quan tâm hơn cả.
Cư sĩ Dhammika là một Phật tử tín tâm thời Đức Phật còn tại thế. Toàn thể gia
quyến ông thực hành Phật Pháp rất nghiêm túc. Khi thọ bệnh, và nhận thấy mình
sắp từ giã cõi đời, ông thỉnh cầu Đức Phật cho phép Tăng chúng đến tụng kinh
bên giường bệnh. Lời thỉnh cầu của ông được Đức Phật chấp nhận. Ngài cử một số
chư Tăng đến gia thất ông, và chư Tăng bắt đầu trì tụng Kinh Tứ Niệm Xứ.
Khi chư Tăng đang tụng kinh, thình lình ông la lớn: "Ngừng lại! Ngừng
lại!". Nghe vậy, chư Tăng rất lấy làm ngạc nhiên. Vì nghĩ rằng ông
Dhammika yêu cầu đừng tụng kinh nữa, chư Tăng bèn ngưng tụng và trở về tinh xá
trình với Đức Phật.
Đức Phật hỏi sao chư Tăng về sớm vậỵ Chư Tăng thưa rằng đó là vì cư sĩ Dhammika
yêu cầu ngưng, và do đó chư Tăng quay trở về tuy chưa tụng hết bài kinh. Đức
Phật nói rằng mọi người đã hiểu lầm ý người bệnh. Ngài giảng giải thêm rằng ý của
ông ta hoàn toàn khác hẳn. Ông muốn chư Thiên đang đem xe đến đón ông về thiên
giới hãy ngừng lại, đừng đưa ông đi vội, vì ông đang nghe kinh. Ông ta không hề
có ý yêu cầu chư Tăng ngưng tụng kinh.
Trong Tam Tạng Kinh Điển và trong các sách Chú Giải, tôi cũng từng đọc được
nhiều câu chuyện về sự xuất hiện của chư Thiên và ngạ quỷ trong giờ phút lâm
chung, tùy thuộc vào nghiệp quả đã làm trong suốt cuộc đời của người hấp hốị
Tôi rất thắc mắc, vì những câu chuyện này đi ngược lại với đường lối tôi lý
luận lúc đô Tôi tìm đến Hòa Thượng Jnanishwar, một học giả uyên thâm về Phật
học trụ trì tại một ngôi chùa nổi tiếng ở vùng Unainpura tại quốc gia
Bangladesh, và trình lên Ngài nỗi thắc mắc của mình. Ngài bèn niệm bài kệ sau:
"Niraye aggikkhandho ca petalokanca andhakam, tiracchanayoninca
mamsakkhandhanca manusam, vimanam devalokamhi nimittam panca dissarẹ"
Có nghĩa là:
"Ai bị đọa xuống Địa Ngục sẽ thấy lửa; ai bị đọa làm ngạ quỷ sẽ thấy xung
quanh mình tối tăm; ai sinh làm thú vật sẽ thấy rừng rú, súc vật và muông thú
ai sinh làm người sẽ thấy thân nhân đã khuất; và ai sinh lên cõi Trời sẽ thấy
cung điện trên Thiên giớị Thường thường, năm hình ảnh này sẽ hiện ra cho người
hấp hối."
Ngài Hòa Thượng đã cố công giải thích câu kệ trên cho tôi rất cặn kẽ, nhưng tôi
vẫn không đồng ý cho lắm. Phải có một kinh nghiệm thực chứng nào đó họa may mới
có thể thuyết phục tôi hoàn toàn tin tưởng vào câu kệ trên.
-oOo-
Sau đó không lâu, tôi đã chứng thực được điều mình đang mong mỏị Lúc ấy, tôi
đang ở tại một ngôi chùa trong làng Tekota thuộc hải cảng Chittagong, nằm trong
quốc gia Bangladesh. Một ngày kia, khi đi học về từ ngôi trường đại học cách
chùa khoảng năm dặm, tôi cảm thấy rất mệt mỏi và muốn lên giường nằm nghỉ chốc
lát. Bỗng đâu, có một cư sĩ ở làng bên đến chùa nhờ tôi đi thăm người anh rể
tên là ông Abinash Chandra Chowdhury, vì ông này đau nặng và đang cơn hấp hốị
Ông Chowdhury được năm mươi sáu tuổi, và là một Phật tử tín tâm, ai cũng biết
đến tâm đạo của ông ta. Tôi đứng dậy và đi theo vị cư sĩ đến nhà người anh rể
của ông ấỵ
Đến nơi, tôi thấy nhà ông đã đông đủ bạn bè thân quyến. Tất cả đều nhường lối
cho tôi tiến đến gần người hấp hối. Ông ta đang nằm trên một tấm nệm trải trên
sàn. Lúc ấy khoảng 8:30 tối. Có người mang ghế lại mời tôi ngồi. Cả nhà trở lên
im lặng khi tôi sửa soạn tụng kinh. Ai nấy đều hồi hộp vì trước đó, tôi đã từng
ngỏ ý trong các bài thuyết pháp rằng tôi ước ao được kiểm chứng lại năm hình
ảnh thường hiện ra trước giây phút lìa đời của người sắp chết. Giờ đây, giây
phút quan trọng được mong chờ này đã đến.
Tôi bắt đầu tụng kinh. Sau khi tụng xong vài bài, tôi nghe người hấp hối thì
thào một cách thành kính những chữ "Phật - Pháp - Tăng, Vô thường - Đau
khổ - Vô ngã" và "Từ - Bi - Hỷ - Xả". Thế rồi, tôi nhận thấy ông
ấy suy nhược hẳn đi. Để nhìn ông ta cho rõ, ngõ hầu chứng minh câu kệ về năm
hình ảnh nọ, tôi yêu cầu mọi người cho tôi ngồi xuống sàn, cạnh người sắp quá
vãng. Mọi người liền tuân theo ý tôi ngay.
Người hấp hối nằm nghiêng về phía tay trái đối diện tôị Tôi đặt bàn tay phải
của mình lên cánh tay phải của ông ta và hỏi thăm sức khỏẹ Ông trả lời rằng
giây phút lìa đời đã đến, và không còn hy vọng gì sống thêm nữa. Tôi cố gắng an
ủi ông rằng ông mới có năm mươi sáu tuổi và không thể nào chết sớm như vậỵ Suốt
đời ông đã làm rất nhiều việc thiện, nêu lên bao nhiêu gương sáng cho mọi người
trong làng, cho nên cuộc đời ông không thể bị vắn số như vậy được.
Thế rồi tôi hỏi ông có muốn thọ trì Ngũ Giới và nghe thêm kinh không. Ông ta
bằng lòng. Sau khi cho ông thọ giới, tôi tụng kinh và nhận thấy ông ta lắng
nghe với tất cả lòng thành kính. Khi ngừng tụng, tôi muốn biết ông có thấy hình
ảnh nào không. Suốt thời gian tôi ngồi cạnh, cặp mắt ông ta nhắm nghiền. Cứ mỗi
khoảng thời gian ngắn là tôi nhắc lại câu hỏi của mình. Ông ta cho biết rằng
ông không nhìn thấy gì cả.
Khoảng 11:30 tối, đôi môi ông bắt đầu mấp máỵ Những người đứng cạnh giường nhận
ra rằng ông đang nói thấy cây Bồ đề tại Bồ đề Đạo tràng, nơi Đức Phật thành đạo.
Có lẽ ông ta thấy cây Bồ đề vì đang nhớ lại chuyến hành hương của mình tại Bồ
đề Đạo tràng. Tôi hỏi ông còn thấy gì khác. Ông nói một cách ngạc nhiên rằng
hai vị sinh thành ra ông cũng ở đó và đang dâng hoa lên Vajrasana (Kim Cương
Tọa) dưới cội cây Bồ đề. Ông ta nói như thế đến hai lần. Tôi nhờ ông hỏi song
thân ông có muốn thọ Ngũ Giới không. Ông ta trả lời có và hai người đang chắp
tay nhận giới.
Sau khi truyền Ngũ Giới cho song thân ông, tôi lại hỏi ông xem hai vị ấy có
muốn nghe kinh không. Khi được trả lời rằng có, tôi bèn tụng bài Từ Bi Kinh.
Tôi cảm thấy rất kích động với những diễn tiến vào lúc đó, vì chúng đã xảy ra
giống câu kệ về năm hình ảnh nọ. Những người xung quanh cũng bị kích động không
kém vì họ đang chứng kiến một sự kiện không thể ngờ.
Theo như lời kệ, tôi hiểu rõ ràng rằng hình ảnh cha mẹ quá vãng cho tôi biết
ông sẽ tái sinh làm người và trong điều kiện sống rất cao đẹp, vì có hình ảnh
của cây Bồ đề cùng với song đường. Thế nhưng, tôi cảm thấy với đức tin trong
sạch, ông xứng đáng lên cõi cao hơn. Tôi tiếp tục hỏi ông còn thấy gì nữa.
Một lúc sau, tôi nhận thấy ông ấy có sự thay đổi. Hình như ông ta bắt đầu lo
lắng cho cuộc sống trần thế và yêu cầu họ hàng giải nợ cho ông. Tôi hỏi ông
thấy gi`. Ông trả lời một cách yếu ớt rằng ông thấy một bộ tóc dài. Lúc ấy
khoảng 1:40 sáng. Tôi hỏi: "Ông có thấy mắt không?" thì được trả lời
rằng: "Không, vì bộ tóc đen phủ kín từ đầu đến gót."
Tôi không biết hình ảnh ma quái này có nghĩa gì, nhưng cũng đoán chừng rằng nếu
ông ta chết vào lúc này thì sẽ tái sinh vào một cảnh giới thấp, nên tôi bắt đầu
tụng kinh để xua đuổi con ma. Quả nhiên công hiệu, vì khi tôi hỏi con ma còn đó
không, ông nói con ma đã biến mất. Ít lâu sau, khi tôi nhờ Hòa Thượng
Jnanishwar và Hòa Thượng Silalankara giải thích, cả hai đều nói rằng nếu qua
đời vào lúc bấy giờ ông ta sẽ tái sinh làm ngạ quỷ.
Hình như ông vẫn còn quyến luyến sự sống trên cõi thế gian vì ông nài nỉ thân
nhân cất giữ tấm nệm dưới giường ông nằm cho người con trai duy nhất mang tên
là Sugata Bikash Chowdhurỵ Người con trai này còn kẹt ở xa, tận tỉnh Durgapur
thuộc Ấn độ. Ông không muốn tấm nệm bị hỏa thiêu theo xác ông theo tục lệ của
nhiều Phật tử ở hải cảng Chittagong thuộc quốc gia Bangladesh. Sau đó, ông bị
kiệt sức rất nhiều.
Tôi hỏi ông còn thấy những gì. Ông ta trả lời rằng ông thấy hai con chim bồ
câu đen. Tôi hiểu tức thì rằng đó là hình ảnh của thế giới loài thú, nơi ông sẽ
tái sinh. Lúc này đã 2:00 giờ sáng. Tôi không muốn ông thọ sinh làm kiếp thú
nên tiếp tục tụng kinh. Khi tụng xong vài bài, tôi lại hỏi ông thấy gi`. Lần
này, ông trả lời rằng không thấy gì cầ.
Tôi tiếp tục tụng kinh. Một lúc sau, tôi hỏi ông có thấy gì nữa không. Tôi phải
nhắc lại câu hỏi nhiều lần. Cuối cùng, ông ta nói một cách ngạc nhiên rằng ông
thấy một cỗ xe từ thiên giới đang tiến đến gần. Mặc dù biết rằng không một
chướng ngại vật nào có thể ngăn cản được cỗ xe đó, nhưng vì lòng tôn kính đối
với chư Thiên, tôi yêu cầu thân quyến của người hấp hối đứng xa ra, nhường chỗ
cho cỗ xe đậu lại. Xong, tôi hỏi ông cỗ xe đó cách xa ông bao nhiêu. Ông đưa tay
ra dấu cho biết cỗ xe đó đang ở sát cạnh giường.
Khi được hỏi có thấy ai trong xe không, ông ta trả lời rằng có những vị thiên
nam và thiên nữ trong xe. Tôi nhờ ông hỏi ý chư Thiên có muốn thọ Ngũ Giới
không, vì tôi được biết qua kinh điển rằng chư Thiên rất vâng lời và kính trọng
chư Tăng và các vị cư sĩ tại gia có đạo tâm.
Khi được trả lời rằng có, tôi liền làm lễ truyền Ngũ Giới cho chư Thiên và hỏi
các Ngài có muốn nghe Từ Bi Kinh không. Khi biết chư Thiên đồng ý, tôi bèn tụng
hết cả bài kinh. Tôi lại hỏi chư Thiên có muốn nghe Hạnh Phúc Kinh (Mangala
Sutta) không, và tôi tụng bài này khi chư Thiên tỏ ý bằng lòng.
Khi tôi hỏi các Ngài có muốn nghe thêm bài Linh Bảo Kinh (Ratana Sutta) không,
thì người hấp hối xua tay ra dấu rằng chư Thiên bảo không còn thì giờ nghe kinh
nữạ Sau đó, ông ta cho biết chư Thiên muốn tôi trở về chùa.
Tôi hiểu rằng chư Thiên nóng lòng muốn rước người bệnh lên thiên giới, nhưng
tôi tìm cách ngăn cản để kéo dài sự sống cho ông ta trên mặt đất nàỵ Tôi nhờ
ông mời chư Thiên lui gót vì chưa đến lúc ông ấy chết. Tôi lý luận rằng ông ta
mới có năm mươi sáu tuổi, cho nên tôi dám chắc rằng chư Thiên đã lầm lẫn. Tất
cả mọi người có mặt và cả tôi nữa sẵn lòng hồi hướng phước báu của mình đến các
Ngài để đổi lấy sự sống cho ông ta.
Tôi lại hỏi người hấp hối còn thấy hình ảnh gì nữa không. Ông trả lời rằng song
thân ông còn quanh quẩn bên cây Bồ đe^`. Như vậy, chỉ có nghĩa là tâm ông còn
vướng bận cảnh trần rất nhiều và ông sẽ tái sinh làm ngườị Một lần nữa, tôi đề
nghị tất cả chúng tôi hồi hướng phước báu đến cha mẹ ông đã quá vãng, và sau
khi thọ hưởng rồi, hai ông bà phải ra đi như chư Thiên đã ra đi vậỵ
Theo dấu hiệu của người hấp hối thì hình như người cha đồng ý, nhưng người mẹ
thì không. Tôi tỏ vẻ nghiêm cẩn với bà mẹ vì chư Thiên đã đồng ý với tôi thì
hai người không nên từ chốị Tôi nói rằng nếu hai người vẫn có hành động như
thế, e rằng sẽ gây ra các hậu quả không tốt cho hai người mà thôị Tôi phải nói
mãi họ mới chịu nghẹ Cuối cùng, cả hai biến mất.
Bây giờ thì không còn bóng hình nào lảng vảng trong tâm người bệnh nữạ Trông
ông ta thay đổi hẳn. Ông ta hít một hơi dài và có nhiều sức sống. Khi có người
cầm đèn đến gần để soi mặt ông, ông ta nói: "Đừng lo nữa, tôi không chết
đâụ" Nhận thấy ông đã khỏe hẳn, tất cả chúng tôi đều cảm thấy nhẹ nhõm và
vui mừng.
Chúng tôi đều bị kích động với những diễn tiến vừa quạ Lúc đó đã 5:00 giờ sáng.
Mọi người vừa trải qua một đêm không ngủ, nhưng không ai tỏ ra mệt mỏi, vì sự
kiện trên quá hấp dẫn và thu hút. Tôi từ giã mọi người, quay trở về chùa, đi
tắm, ăn sáng, và sau cùng lên giường chợp mắt.
Khoảng 10:30 sáng, nghe tiếng động ngoài phòng, tôi đi ra xem chuyện gì thì
thấy ông khách tối quạ Tôi hỏi ông nguyên do trở lại chùa thì được biết ông ta
đến đón tôi vì sau năm tiếng đồng hồ khoẻ mạnh, ông Chowdhury lại bị đuối sức
và cái chết lại cận kề.
Tôi vội vàng theo người khách trở lại nhà ông Chowdhurỵ Trên đường, tôi gặp rất
nhiều người trong làng lũ lượt kéo nhau đi cùng hướng với tôi, và khi đến nhà
ông Chowdhury, tôi thấy rất đông người đứng chật cả nhấ Đó là vì tiếng đồn về
sự kiện xảy ra từ đêm trước. Mọi người rẽ ra nhường lối cho tôi tiến đến giường
bệnh.
Tôi ngồi bên cạnh người hấp hối hỏi thăm sức khỏẹ Ông ta trả lời rất yếu ớt
rằng ông không sống được nữạ Tôi khuyến khích ông và nhắc nhở ông những việc
thiện ông đã làm trong đời. Lâu lâu tôi lại hỏi ông có thấy ai không, nhưng ông
ta không thấy gì cả.
Khoảng 11:20 sáng, một cụ lão tên là cụ Mahendra Chowdhury khoảng 86 tuổi nhớ
ra giờ ăn chót trong ngày của tôi sắp qua nên nhắc tôi độ ngọ. Tôi cương quyết
từ chối vì không thể rời giường bệnh vào lúc đó cho dù là để ăn cơm.
Câu nói của tôi làm bầu không khí căng thẳng thêm vì ai cũng chờ đợi những diễn
tiến tiếp theo tối trước ra sao. Tôi lại hỏi người hấp hối thấy gì không. Lần
này, ông ta trả lời: "Có, chư Thiên lại đem xe đến nữa."
Sự xuất hiện của chư Thiên ngay sau khi tôi từ chối ăn trưa làm tôi suy nghĩ
rất nhiều. Sau này, khi tôi nhờ Hòa Thượng Jnanishwar và Hòa Thượng Silalankara
giải thích, cả hai đều nói rằng chư Thiên chờ tôi đi độ ngọ, để khi tôi vắng
mặt là chư Thiên đón ông ta về trời ngay. Thế nhưng vì tôi không chịu bỏ đi, nên
các Ngài đành đến rước ông ta vậỵ
Người bệnh cho tôi biết chư Thiên thỉnh cầu và năn nỉ tôi trở về chùạ Khi tự
hỏi tại sao, tôi bỗng hiểu sở dĩ các Ngài ngần ngại không rước người bệnh đi
khi tôi còn ở đó vì các Ngài mang ơn tôi đã ban Ngũ Giới và tụng kinh cho các
Ngàị Sau này, nhị vị Hòa Thượng cũng nói thế.
Vì cảm thấy người bệnh không thể trốn tránh cái chết được nữa, tôi nhờ ông thưa
cùng chư Thiên rằng: "Xin chư Thiên tự nhiên rước ông ta đi, cho dù tôi
đang có mặt tại nơi đâỵ Tôi không phản đối nữạ Tôi rất hoan hỉ cho phép ông ta
ra đị" Sở dĩ tôi nói vậy vì ông ta sẽ đi về thiên giới, rất xứng đáng với
các công đức ông đã làm và đó là điều tôi chân thành ao ước cho ông. Tiếp theo,
tôi yêu cầu bà vợ và thân quyến của ông nói lời giã biệt một cách vui vẻ.
Đây là lúc mọi người sửa soạn cuộc hành trình cuối cùng trong đời của người hấp
hốị Trước khi ra đi, ông nói: "Thôi, tôi đi dâỵ" Vẻ mặt ông rất hân
hoan và sáng lạng.
Tôi bèn nâng đầu và vai ông, còn người khác nắm chân. Chúng tôi đặt ông nằm
ngửa cho thẳng thắn. Tôi nhỏ vài giọt nước đường vào miệng ông. Tiếp theo, tôi
đặt bàn tay phải của mình lên ngực ông tạ Tôi cảm thấy còn rất nhiều hơi ấm.
Người đang chết hình như còn tỉnh thức và đang lẩm nhẩm những câu kinh nhật
tụng.
Thế rồi, ông ta giơ bàn tay phải lên như đang tìm kiếm một vật gi`. Tôi không
hiểu ông muốn gì. Có người trong đám đông đề nghị có lẽ ông muốn sờ chân tôi
như đêm trước ông đã từng làm như vậy, vì tôi đang ngồi trên sàn cạnh ông.
Tôi đưa chân phải của mình đến gần để ông ấy có thể đưa tay ra sờ được. Khi sờ
được chân tôi xong, trông ông có vẻ mãn nguyện. Sau đó, ông giơ bàn tay vừa
đụng vào chân tôi lên trán mình và sau cùng xuôi thẳng tay đặt bên hông.
Tôi cảm thấy hơi ấm ở ngực ông bớt dần. Khoảng một hay hai phút sau, cơ thể ông
ấy giật lên và trút hơi thở cuối cùng. Khi xác ông hoàn toàn lạnh, tôi rút tay
về và nhìn quanh. Mọi người xung quanh ngồi hay đứng đều hoan hỉ và an nhiên tự
tại.
Cả nhà không một tiếng khóc. Đó là một cuộc tiễn đưa người chết rất hay, theo
đúng lời tôi căn dặn trong các buổi thuyết giảng. Tôi từ giã mọi người và bảo
thân nhân bạn bè người chết bây giờ có thể tha hồ khóc lóc, vì vào lúc này sự
thương tiếc không còn ảnh hưởng đến người quá vãng nữạ
-oOo-
Câu chuyện trên đã đánh tan mọi mối nghi ngờ từ trước về câu kệ diễn tả năm
hình ảnh xuất hiện trong trí người sắp chết do Hòa Thượng Jnanishwar đọc và tôi
cũng từng thấy những câu tương tự trong kinh điển. Sau này, khi phân tích về
cái chết của ông Chowdhury, tôi nhận ra rằng mỗi giai đoạn đều có một hình
tướng (nimitta) tương xứng với trạng thái của tâm (citta).
Cảnh cây Bồ đề và cha mẹ đã khuất là kết quả của nghiệp tướng (kamma nimitta).
Đó là yếu tố quan trọng trong tâm thức do thiện nghiệp gây rạ Thế nhưng, sau
này, ông ta thấy người tóc dài và hai con chim bồ câu hoặc hình ảnh ngạ quỷ.
Đó là dấu hiệu của những việc bất thiện ông đã làm.
Nghe kinh tụng đã xua đuổi được tư tưởng bất thiện và kết quả là hình ảnh ma
quái lẫn muông thú biến mất. Tâm trở nên an tịnh nhờ nghe kinh kệ và thọ Ngũ
Giới nên hình ảnh chư Thiên xuất hiện. Cho đến phút cuối, trạng thái tâm trong
sạch này mạnh hơn hết. Tâm này còn mạnh hơn cả tâm khi thấy song thân. Hình ảnh
cha mẹ đã biến mất để cuối cùng con đường lên thiên giới hiển lộ cho người hấp
hối thư thái ra đi.
-oOo-
Kết luận câu chuyện này là giây phút cuối trong đời sẽ có ảnh hưởng mạnh đưa
chúng ta về cảnh giới cao hơn hay thấp hơn. Vì thế, bổn phận của thân nhân
người đang hấp hối là hãy nhắc nhở cho người đó những việc thiện đã làm trong
đời và tụng kinh niệm Phật luôn luôn. Chúng ta không nên làm tâm thức người đó
mê mờ qua sự khóc than hay khiến họ lo nghĩ đến chuyện thế tục.
Tôi cũng hiểu thêm rằng cho dù mộ đạo hay làm việc thiện đến đâu chăng nữa,
chúng ta không thể đạt được giải thoát hoặc lên cõi Niết bàn. Mọi hành vi thiện
chỉ có thể giúp chúng ta tái sinh lên cõi an vui như cõi trời hoặc Phạm thiên
chẳng hạn. Chỉ khi hành thiền Tuệ Quán (vipassana-bhavana) chúng ta mới thoát
khỏi được mười kiết sử (dasa samyojana) và đạt được bốn quả Thánh đưa đến Giải
Thoát. Bốn quả Thánh đó là Nhập Lưu, Nhất Lai, Bất Lai và A-la-hán.
Ba kiết sử đầu tiên là thân kiến (sakkaya-ditthi), hoài nghi (vicikiccha), và
giới cấm thủ (silabbata-paramasa) chỉ vượt qua được khi đạt quả Nhập Lưu. Ai đã
đạt được quả vị này sẽ không tái sinh vào bốn khổ cảnh: Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc
Sinh, và A -tu-la. Không những thế, các Ngài không tái sinh quá bảy lần. Khi lâm
chung, các Ngài chỉ thấy hình ảnh cõi người hay cõi trời mà thôi.
Ai hành thiền tiến xa hơn nữa sẽ đạt được quả vị Nhất lai khi kiết sử thứ tư là
dục ái (kamaraga) và thứ năm là sân hận (patigha) đã bị suy yếu. Các Ngài chỉ
còn tái sinh thêm một lần mà thôi. Hình ảnh hiện ra khi hấp hối cũng là hình ảnh
cõi người hay cõi trời.
Người nào hành thiền và diệt được hoàn toàn kiết sử thứ tư và thứ năm, nghĩa là
dục ái (kamaraga) và sân hận (patigha), sẽ không tái sinh lại cõi người nữạ Các
Ngài sẽ tái sinh vào thiên giới gọi là Tịnh Cư Thiên, và sẽ nhập Niết bàn sau
đô Những vị này chỉ nhận được hình ảnh chư Thiên khi hấp hối.
Khi hành thiền nếu tiến được xa hơn, chúng ta có thể đạt được quả A-la-hán khi
loại trừ năm kiết sử còn lại. Đó là sắc ái (rupa-raga), vô sắc ái (arupa-raga),
mạn (mana), trạo cử (uđhacca), và vô minh (avijja). Các Ngài đã đạt được quả vị
cuối cùng, và khi lìa cõi đời sẽ không thấy hình ảnh gì cả.
Niết bàn là đích cuối cùng do Đức Phật tìm thấy qua thiền Tuệ Quán. Các đệ tử
của Ngài đi trên con đường do Ngài chỉ dạy, và phải nhờ thiền Tuệ Quán mới đạt
đến Niết bàn. Những hình ảnh hiện ra chỉ là những ánh đèn khi mờ khi tỏ tạm soi
kiếp sống con ngườị Mục tiêu cuối cùng, ngọn đèn sáng thật sự ở cõi Niết bàn,
chỉ đạt được qua thiền Tuệ Quán mà thôi.
Tỳ Kheo Rastrapal
Hải Trần dịch
(Vài điều sơ lược về tác giả: Hòa Thượng Rastrapal hiện đang dạy thiền và là vị trụ trì tại Trung Tâm Thiền Học Quốc Tế (International Meditation Centre) tại Bồ Đề Đạo tràng (Bodh Gaya), thuộc Ấn độ).