Nhân đọc bài viết về tiểu sử và sự nghiệp hoằng pháp của Tôn Giả Ca Chiên Diên
(Maha Katyayana) một trong mười đại đệ tử của Đức Phật nổi tiếng là “biện luận
đệ nhất” tôi không nén được xúc động và
không thể không bày tỏ lòng tôn kính tột độ đối với một vị bồ tát, một đạo sư
thật vĩ đại đã đi đúng mạch sống của Phật Giáo, đi đúng giáo lý của Đức Phật và
xứng đáng đại diện Phật nói trước đại chúng trong một số pháp hội. Bằng lý luận
đanh thép, bằng chứng nghiệm bản thân, Tôn Giả Ca Chiên Diên đã dùng ánh sáng
trí tuệ chiếu rọi vào tận cùng của sự vật, những khúc mắc của chuyện đời, cội
nguồn khổ đau của nhân thế, đâu là thánh thiện, đâu là bợn nhơ, đâu là đạo giải
thoát rốt ráo và đâu là con đường phải theo. Và những điều đó đã thuyết phục và
chuyển hóa lòng người.
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng
trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết và sức mạnh của lý trí
để giải quyết vấn đề tâm linh của con người cùng những vấn nạn của xã hội mà
không dựa vào Thần Linh. Đây là sự kiện lạ lùng và chấn động vì khi đó Bà La
Môn Giáo đang thời cực thịnh mà Brahma (Thượng Đế) là điểm tựa duy nhất để giải
quyết mọi vấn đề. Trong quá trình tu chứng 49 ngày cuối cùng, Đức Phật không
dựa vào thần quyền, không cầu nguyện van vái. Mà Ngài đã trải qua những chặng
đường chuyển hóa nội tâm “chứng được quả Túc Mệnh Thông tức thấy rõ tất cả
khoảng đời quá khứ của mình trong tam giới. Đến nửa đêm Ngài chứng được quả
Thiên Nhãn Minh, thấy được bản thể của vũ trụ và nguyên nhân cấu tạo của nó.
Đến canh tư Ngài chứng được quả Lậu Tận Minh, rõ biết nguồn gốc của khổ đau và
phương pháp diệt trừ đau khổ để giải thoát khỏi sinh tử, luân hồi.” (1) Và cuối
cùng Ngài vẫn còn phải chiến đấu với những níu kéo ghê gớm của Ái - Dục vốn gắn
chặt với kiếp người, biểu hiện qua cuộc chiến đấu với Ma Vương.
Trong suốt 45 năm hành đạo, thu nhận, dạy dỗ đệ tử, Đức Phật chỉ nói về những
gì Ngài trải qua và chứng đắc, không thêm, không bớt và không giữ lại cho mình
bất cứ điều gì. Giáo pháp của Ngài là một kho tàng tư tưởng nhân bản, lý luận
phong phú, dùng ẩn dụ, dùng toán học, khúc triết, có dẫn chứng, có so sánh để
khai mở trí tuệ. Ngoài danh hiệu “ Đấng Từ Phụ”, Đức Phật còn là một triết gia,
một nhà giáo dục, một tâm lý gia vĩ đại mổ xẻ những khúc mắc tâm lý của con
người.
Từ những điểm thù thắng và hi hữu nói trên, qua cuộc đời bằng xương bằng thịt
của Đức Phật, qua công hạnh và việc hoằng pháp của các đệ tử của Ngài, chúng ta
có thể rút ra những đặc điểm của Phật Giáo như sau:
a) Đạo Phật không dựa vào Thần Linh, phép mầu nhiệm để xây dựng nền tảng giáo
lý của mình. Đạo Phật trực chỉ nhân tâm, lấy con người làm gốc, lấy sức mạnh
của con người - tức bộ óc - tức trí tuệ của con người - để giải quyết những vấn
đề của con người. Hạnh phúc do con người kiến tạo. Khổ đau do con người tự gây
ra cho nhau và cho chính mình. Khi dùng trí tuệ làm nền tảng thì ai cũng như
ai, mọi người đều bình đẳng vì ai cũng đều có trí tuệ, ai cũng có Phật tánh.
Khi dùng Thần Linh làm nền tảng thì con người trở thành tôi tớ cho Thần Linh.
Tầng lớp trung gian với Thần Linh sẽ trở thành Thánh và có quyền sinh sát, có
quyền quyết định vận mệnh của con người bởi vì chỉ có tầng lớp trung gian này
mới có khả năng tiếp cận hoặc là đại diện chân chính của Thần Linh mà thôi.
Trước khi gặp Phật, nhờ sự thông thái đặc biệt mà Tôn Giả Ca Chiên Diên đã có
thể đọc được tấm bia đá viết bằng cổ ngữ do vua của Thành Ba La Nại đào được mà
người đời cho rằng đó là văn tự của Đấng Phạm Thiên (Thượng Đế). Dù đọc được
nhưng Tôn Giả không sao tìm ra lời giải đáp. Tấm bia viết như sau:
Vua của các vị vua là ai"
Thánh của các bậc thánh là ai"
Thế nào là người ngu"
Thế nào là người trí"
Làm sao xa lìa được dơ bẩn"
Làm sao chứng đạt được niết bàn"
Ai chìm đắm trong biển sinh tử"
Ai tiêu dao tự tại trong cõi giải thoát"
Dù đã đi vấn hỏi Nhóm Lục Sư là những nhà thông thái nhất lúc bấy giờ, họ cũng
không tìm ra lời giải đáp. Cuối cùng, nhớ lời dặn của người cậu là Đạo Sĩ A Tư
Đà (Asita) trước khi qua đời, Tôn Giả đã phải tới thỉnh hỏi Đấng Đại Giác và
sau đây là giải đáp của Đức Phật:
Vua của các vua là vị thiên vương cung trời thứ sáu.
Thánh của các bậc thánh là đức đại giác Phật Đà.
Để cho vô minh làm ô nhiễm là người ngu.
Có khả năng tiêu diệt mọi phiền não là người trí.
Dứt bỏ được tham sân si thì lìa được dơ bẩn.
Hoàn thành được giới định tuệ thì chứng niết bàn.
Còn vướng mắc vào ngã và pháp là còn chìm đắm trong biển sinh tử.
Thấy rõ được pháp tánh duyên khởi thì tiêu dao tự tại trong cõi giải thoát. (2)
Lời giải đáp không hề dựa vào bóng dáng của thần quyền, không huyền hoặc, hoàn
toàn thuần lý, rõ ràng và bày tỏ sự chứng đắc rốt ráo của đấng Đại Giác, khiến
cho “những bóng mờ vẫn ẩn núp trong tâm trí ông từ bấy lâu nay đều bị ánh sáng
trí tuệ quét sạch.” (3) Và đây là nguyên do khiến Tôn Giả tới đảnh lễ qui y và
trở thành đệ tử của Đức Phật, từ bỏ danh vọng, quyền thế cao tột của dòng dõi
Bà La Môn.
b) Đạo Phật không dựa vào những thiên tai dịch họa như núi lửa, động đất, sóng
thần, hạn hán, lụt lội, bệnh tật hoặc những tai họa do chính con người gây ra
như chiến tranh v.v…để minh chứng cho sự hiện hữu của Thần Linh để rồi từ đó hù
dọa, khuyến dụ con người tôn thờ Thần Linh và đi theo đạo tôn thờ Thần Linh.
Đạo Phật đi lên từ những khổ đau của con người trong đó thiên tai, dịch họa chỉ
là một trong những khổ đau của con người. Chính bản thân Đức Phật khi còn là
thái tử đã phải đối đầu với những khổ đau như Sinh, Lão, Bệnh, Tử mà giáo lý
của thần giáo đương thời, thậm chí thân phụ ngài, dù là một quốc vương cũng không
sao giải quyết được. Ngài từ bỏ cung vàng điện ngọc ra đi không phải đi tìm
thiên đàng, không phải để tu luyện phép mầu mà chỉ để giải quyết những khổ đau
của chính mình và của nhân thế. Do đó Đạo Phật là đạo diệt khổ. Khổ Đế là khởi
nguyên của Đạo Phật. Cứu cánh của Phật Giáo là giải thoát khỏi khổ đau, giải
thoát khỏi sự thống ngự của thần quyền, giải thóat khỏi Tham-Sân-Si là nguyên
do của bao thảm họa xảy ra trên cõi đời này. Dĩ nhiên khi đã diệt hết khổ thì
chúng ta hạnh phúc. Niết Bàn chỉ là trạng thái mà con người đã xa lìa tất cả
các phiền não chứ không phải là cuộc sống ở một cung trời nào đó. Do đó, trong
Đạo Phật, bất cứ ai tự xưng mình là thánh thần mà còn nhăn nhó, khổ đau, van
nài, kêu cứu…thì đó là chỉ là phàm phu chứ không phải thánh thần. Vì không tôn
thờ Thần Linh, không tôn thờ Tự Ngã cho nên cứu cánh của Phật Giáo không phải
là sự thờ phượng. Nếu chúng ta có thờ Phật cũng chỉ để tôn thờ một bậc thầy vĩ
đại để từ đó đi theo giáo lý của Phật, để được hạnh phúc như chính Phật.
Truyện
về quãng đời hoằng pháp của Ngài Ca Chiên Diên kể rằng: (4)
“Một lần nọ, khi Đức Phật trở về quê hương Ca Tỳ La Vệ để giáo hóa. Trong số
tăng chúng đi theo có Tôn Giả Ca Chiên Diên. Phật và đại chúng tạm trú tại thôn
Hạ Lỵ. Trong thời gian lưu trú tại đây, một hôm, trong thôn có một vị trưởng
giả lâm trọng bệnh. Ca Chiên Diên muốn đích thân đến dùng Phật pháp để tiêu trừ
bệnh khổ cho ông ta.
Tôn Giả đến trong lúc vị trưởng giả đang nằm trên giường bệnh. Tôn Giả hỏi
thăm:
- Thưa trưởng giả! Đức Thế Tôn nghe nói trưởng giả không được khỏe nên sai tôi
đến thăm. Chẳng hay trưởng giả đã cho mời thầy thuốc đến chữa trị chưa"
Vị trưởng rất cảm động trả lời:
- Con xin cám ơn Đức Thế Tôn và đại đức. Bịnh của con đã đến lúc quá nặng rồi,
không còn hi vọng gì chữa được. Rất nhiều thầy thuốc đều đã bảo như vậy.
- Vậy xin trưởng giả hãy chuyên tâm quán niệm Tam Bảo, mong nhờ uy đức lớn lao
của Tam Bảo mà tâm ý của trưởng giả được thanh tịnh, rồi bịnh sẽ thuyên giảm.
- Thưa đại đức! Con qui y Tam Bảo với hi vọng được hộ trì Tam Bảo để đam lại
lợi lạc cho nhân gian. Con nên hiến cúng cho Tam Bảo những gì mình có chứ đâu
dám yêu cầu này nọ nơi Tam Bảo!
- Trưởng giả nói rất đúng! Cõi thế gian là vô thường, chúng ta không thể nào
yêu cầu Tam Bảo làm cho ta được thường trú mãi mãi. Thân thể phải bị bịnh tật,
chúng ta không thể nào yêu cầu Tam Bảo làm cho ta khỏe mạnh suốt đời. Người có
đức tin vào Tam Bảo lúc nào cũng hi sinh cá nhân để xây dựng cuộc sống chung.
Bịnh hoạn, đau khổ của cá nhân, chúng ta hãy biết tự lo lấy chứ đâu có dám làm
phiền đến Phật Pháp Tăng, nhưng thưa trưởng giả, sức người thì có giới hạn mà
ánh từ quang của Tam Bảo thì trải khắp mọi nơi, nếu chúng ta thành tâm cần cầu
thì ánh từ quang ấy sẽ rọi chiếu đến.
Nghe lời khuyên của Ca Chiên Diên, vị trưởng giả hàng ngày chuyên niệm Tam Bảo.
Ông cảm thấy thân tâm dần dần trở nên an lạc và bệnh tình cũng ngày càng thuyên
giảm.”
Lời khuyên của Tôn Giả thật nhân bản, hợp tình, hợp lý. Dĩ nhiên Tam Bảo không
thể chữa lành bệnh cho ai. Ai nói rằng Phật Pháp Tăng có thể chữa lành bệnh cho
tất cả mọi người thì đó là sự lừa mị. Thế nhưng nếu chúng ta chú tâm nhiếp niệm
Tam Bảo thì thân tâm chúng ta thanh tịnh, nghị lực tăng trưởng. Có thể vì thế
mà chúng ta lướt qua được bệnh tật. Đó cũng là phương pháp tâm lý trị liệu của
thời đại ngày hôm nay.
c) Đạo Phật không dùng tình cảm để thuyết phục ai. Vì Đạo Phật nhằm khai mở trí
tuệ cho con người cho nên Đạo Phật không lợi dụng tình cảm yếu đuối, không lợi
dụng những hoàn cảnh khốn khó của người để truyền đạo. Đạo Phật luôn luôn đến
với con người khi con người sáng suốt nhất. Đạo Phật là sự bừng nở hoa tâm, giã
từ sự ích kỷ, giã từ gian tham, giã từ tật đố, giã từ bóng tối, giã từ kiêu
mạn, giã từ cái hữu hạn để tìm về nơi vô hạn. Do đó có thể nói “Nếu bạn mở cánh
cửa Trí Tuệ ra, bạn sẽ thấy Đạo Phật. Nếu bạn khép cánh cửa Trí Tuệ lại, bạn sẽ
không thấy Đạo Phật.” Đạo Phật không dùng ơn nghĩa để truyền đạo. Trong khi
người ta đói khát mình cho người ta một bát cơm đó là cử chỉ đẹp, nhưng lợi
dụng bát cơm đó để dụ người ta vào đạo là một hành vi cưỡng ép và ngay trong cử
chỉ “cho” đó đó đã ngầm chứa một âm mưu, một thủ đoạn bất chính. Đạo Phật là
đạo “phá tà hiển chính”. Chúng ta có thể cam đoan rằng không một tu sĩ Phật
Giáo nào có can đảm làm thế. Nếu họ làm thế thì họ là tín đồ của “Ma Giáo” chứ
không phải Phật Giáo và họ nên cửi áo của Như Lai để đi theo một tôn giáo khác.
Chúng ta hãy xem Tôn Giả Ca Chiên Diên hóa độ một người đàn bà nô lệ bất hạnh:
“Một hôm, sau khi hành hóa ở A Bàn Đề, Ca Chiên Diên lên đường trở về Tịnh Xá Kỳ
Viên ở Thành Xá Vệ. Giữa đường, tôn giả trông thấy một thiếu phụ ôm một vò
nước, ngồi khóc lóc thảm thiết bên bờ sông, tình cảnh có vẻ rất thương tâm. Sợ
người thiếu phụ vì quá thất ý mà có thể nhảy xuống sông tự tử, tôn giả vội vàng
đến hỏi thăm:
- Thưa bà! Có chuyện gì làm bà đau khổ đến nỗi khóc lóc thảm não như vậy"
Nghe có người hỏi, thiếu phụ càng khóc to thêm:
- Thôi ông hỏi han làm gì, dù có nói cũng vô ích thôi!
- Thưa bà! Xin bà cứ nói! Tôi là đệ tử của đức Phật. Tôi có thể giúp bà giải
quyết được bất cứ vấn đề khó khăn nào.
- Ông không có cách nào giúp tôi đâu! Ông thấy không" Trên thế gian đầy
dẫy những hoàn cảnh không bình đẳng, người giàu kẻ nghèo cách biệt một trời một
vực! Tôi là một kẻ nghèo mạt rệp, suốt đời chịu khổ, và cũng vì cái nghèo đã
đem đến cho tôi quá nhiều đau khổ nên hiện giờ tôi không còn muốn sống làm gì
trên cõi đời này nữa!
Nói xong mấy lời ấy thì thiếu phụ vật vã lăn lộn như có ý muốn liều mình. Tôn
giả hoảng hốt, vội nhanh chân đứng chận trước mặt thiếu phụ, rồi thương xót an
ủi:
- Thưa bà! Xin bà đừng quá thất vọng như vậy! Bà hãy bình tâm nhìn lại thử xem,
trên đời này người nghèo nhiều lắm chứ đâu phải chỉ có một mình bà! Lại nữa,
người nghèo không hẳn là bất hạnh, mà người giàu cũng không hẳn là có hạnh
phúc. Bà thấy không! Có những người giàu có, nhà cao cửa rộng, ruộng đất thênh
thang, kẻ ăn người ở đầy nhà, nhưng họ hàng ngày cứ bị các tính xấu như tham
lam, sân hận, ganh ghét giày vò, đó mới là đau khổ, đó mới là bất hạnh. Cho nên
làm người, chỉ cần có được cuộc sống bình an là tốt nhất, còn cái nghèo đâu
đáng để cho ta đau buồn!
- Bởi vì ông là một vị sa môn nên cứ dửng dưng với sự thế, chứ kẻ tục như tôi
thì đâu được như vậy. Ông biết không" Tôi nguyên là kẻ nô lệ của một nhà
đại phú hào ở vùng này. Quanh năm suốt tháng tôi chỉ biết làm nô dịch cho
người, không có một chút thì giờ rảnh rỗi nào, thế mà cơm không đủ ăn, áo không
đủ mặc, lại còn bị người chủ tham tàn bạo ác, hở một chút là mắng chửi đánh
đập, khiến cho bọn tôi tớ chúng tôi, muốn sống cũng không được mà muốn chết
cũng không xong! Tôi nghĩ, sở dĩ tôi bị hành hạ như vậy là chỉ vì cái nghèo mà
ra, sao ông lại bảo cái nghèo không đáng để làm cho người ta đau khổ"
- Thôi thì cứ cho là bà có lý, nhưng dù sao thì tôi cũng khuyên bà đừng đau
buồn nữa. Tôi sẽ chỉ cho bà cách thức chẳng những thoát được cái nghèo mà còn
phát tài nữa.
Nghe vậy, thiếu phụ lật đật lau nước mắt, hỏi dồn:
- Cách gì, thưa đại đức"
- Giản dị lắm! Bà đã bị cái nghèo làm cho đau khổ, sao bà không đem cái nghèo
ấy bán cho người khác đi"
- Đại đức nói đùa sao chứ! Cái nghèo mà bán được thì hóa ra trên đời này chẳng
còn ai nghèo cả" Vả lại, có ai mà lại chịu mua cái nghèo!
- Tôi chịu mua, bà hãy bán cho tôi đi!
- Cái nghèo lại có thể bán được, và cũng có người như đại đức chịu mua, nhưng
rất tiếc là tôi không biết bán nghèo bằng cách nào!
- Bằng cách bố thí, thưa bà! Bà nên biết rằng, sự giàu nghèo của mọi người đều
có nguyên nhân. Sở dĩ người ta nghèo là vì kiếp trước người ta tham lam keo
kiệt, không biết bố thí và tu phước. Sở dĩ người ta giàu có là vì kiếp trước
người ta biết bố thí và tu phước. Cho nên, bố thí và tu phước là cách tốt nhất
để bán nghèo mua giàu.
Nghe mấy lời khai thị của tôn giả, thiếu phụ bỗng cảm thấy như tâm trí mình vừa
được khai sáng, dù vậy, bà vẫn còn có điều thắc mắc:
- Thưa đại đức! Bây giờ thì con thấy tâm trí con đã được sáng tỏ. Con hiểu được
lời dạy của đại đức rồi, nhưng con vốn dĩ rất nghèo, không có bất cứ vật gì gọi
là của riêng; ngay cả cái vò nước này cũng là của người chủ tham lam độc ác ấy,
con đâu biết lấy gì để cúng dường cho đại đức!
Ca Chiên Diên đưa cái bình bát của mình ra trước mặt thiếu phụ:
- Không nhất thiết phải có tiền bạc hay của cải mới bố thí được. Mỗi khi thấy
người khác bố thí mà mình khởi niệm hoan hỷ, đó cũng là bố thí rồi. Hiện giờ bà
có thể trút nước trong cái vò bà đang có sang bình bát này cho tôi. Thế tức là
bà bố thí cho tôi đó!
Tới đây thì thiếu phụ hoàn toàn tỉnh ngộ. Từ đó bà nguyện luôn luôn y theo lời
dạy của tôn giả mà thực hành, và không còn thấy bị đau khổ vì cảnh nghèo nữa.”
(5)
Thưa quý vị, làm sao một vị sa môn đi chân đất, ôm bình bát khất thực, dù trí
tuệ siêu việt như thế nào đi nữa, lại có thể chuyển hóa một cấu trúc xã hội bất
công chằng chịt từ trên xuống dưới trùm phủ cả ngàn năm rồi" Và người đàn
bàn bất hạnh này chỉ là nạn nhân của cấu trúc xã hội bất công đó. Nhưng chẳng
lẽ thấy chết, thấy người ta khổ mà không cứu" Nhưng cứu làm sao đây"
Do sự linh hoạt và minh mẫn khác thường, Tôn Giả đã nảy ra ý nghĩ “mua nghèo”
tức rước lấy cái nghèo cho người đàn bà bất hạnh. Có thể đề nghị này đã làm cho
người đàn bà phì cười. Nhưng cũng nhờ cái tức cười đó mà tâm trí bà bừng sáng,
như nở tâm hoa và một thứ ánh sáng chiếu rọi vào đầu óc và chuyển hóa tâm thức.
Bà không còn cảm thấy nghèo hèn và khốn khổ nữa: Một chuyển hóa tâm thức trong
hòa bình, không làm khổ mình và khổ người, không cần sự trợ lực hay quyền phép
của thần linh.
d) Đạo Phật không dùng quyền lợi vật chất trước mắt, cũng như ảo tưởng về một
cuộc sống bất tử để dụ dỗ con người. Những người đi theo Phật đều vứt bỏ quyền
lợi, danh vọng tột đỉnh của thế gian như bao bậc vua chúa, đại thần, tỉ phú,
những nhà tiên tri, các vị Bà-la-môn tăm tiếng thời Đức Phật còn tại thế. Theo
Phật hay theo Đạo Phật không phải để được thăng quan tiến chức, đặc quyền đặc
lợi kinh tế, ăn trên ngồi trước, hoặc là cái mộc che, cái vỏ đạo đức để vênh
vang trong xã hội. Đạo Phật lại càng không phải là cái “mode”hay phong trào để
theo. Mode hay phong trào giống như kiểu cọ đầu tóc, quần áo, vẽ môi vẽ mắt ồn
ào đó rồi quăng bỏ đó. Theo Phật hay theo Đạo Phật là mong muốn trở thành Toàn
Chân, Toàn Thiện, Toàn Mỹ, bơi lội trong biển Trí Tuệ, tắm mát trong suối Từ Bi
và rong chơi trong vườn Giải Thoát, là người nhưng biết thương người và bình
đẳng với muôn loài. Đạo Phật là như thế đó.
e) Đạo Phật không dựa vào lời sấm truyền, huyền thoại, lời tiên tri để xây dựng
giáo lý của mình. Trong suốt cuộc đời hành đạo, Đức Phật không hề để lại một
lời tiên tri, phỏng đoán nào về vận mệnh của con người và trái đất…mà Đức Phật
chỉ nói về nhân duyên và pháp vô thường của vạn hữu, thể hiện qua bốn giai đoạn
Thành, Trụ, Hoại, Diệt mà ai cũng có thể chứng ngộ và thấy được qua bao ngàn
năm. Tương lai của trái đất tốt xấu thế nào xin để cho các khoa học gia, các
nhà bác học cho ý kiến. Mới đây Stephen Hawking - lý thuyết gia lừng danh về
vật lý của Anh đã tuyên bố trong cuốn sách mới của ông là Thượng Đế không sáng
tạo ra vũ trụ mà “Sự Nổ Lớn” (Big Bang) là hậu quả tất yếu của định luật vật
lý. Nếu năm xưa Đức Phật nói rằng vũ trụ này do Thượng Đế (Brahma) tạo lập, ngày
nay chắc chắn giáo lý của Đức Phật bị suy giảm nghiêm trọng.
g) Đạo Phật không dùng bạo lực, giết hại, kỳ thị để ép buộc con người đi theo.
Khi tôn thờ Thần Linh thì có yêu ghét, cao thấp, sang hèn, đúng sai, phẫn nộ,
trừng phạt…do đó có đe dọa, ra oai, trả thù, đàn áp, giết hại. Khi dùng trí tuệ
chiếu vào thì vạn pháp “ bất bần bất phú, bất cao bất đê, bất phàm bất thánh,
bất ái bất ố, bất tịnh bất cấu, bất tăng bất giảm..” khiến Trí Tuệ lắng yên và
Tâm Đại Bi hiển lộ. Chúng ta hãy đọc một giai thoại hoằng pháp của Tôn Giả Ca
Chiên Diên:
“Một lần nọ, khi đức Phật ngự tại Tịnh Xá Kỳ Viên (Jetavana), Ca Chiên Diên đã
một mình vượt rừng rậm đi về hướng Tây, đến du hóa ở Vương Quốc Ma Du La. Khi
đến nơi, trước hết tôn giả tìm hiểu dân tình và học hỏi phong tục, tập quán
cùng cách thức sinh hoạt của dân địa phương. Sau đó tôn giả mới tìm vào kinh
thành để yết kiến quốc vương. Trông thấy tôn giả, quốc vương hỏi:
- Đại đức! Trẫm nghe nói đại đức vốn thuộc dòng giống Bà La Môn cao quí, nhưng
lại đi qui y làm đồ đệ của Sa Môn Cồ Đàm vốn thuộc dòng giống Sát Đế Lợi; như
vậy chẳng hóa ra là đại đức đã tự hạ thấp mình quá sao"
- Thưa đại vương! Làm đệ tử Phật, chẳng những tôi không cảm thấy tự hạ thấp
mình, trái lại đó là điều vinh quang cùng tột của đời tôi.
- Lạ lùng thật! Bỏ đi cái chủng tộc thanh tịnh sinh ra từ miệng Phạm Thiên của
mình để làm đệ tử của ông Phật dòng Sát Đế Lợi thì có ai mà hiểu nổi!
Dù vị quốc vương tỏ rõ thái độ kinh rẻ như vậy, nhưng tôn giả không lấy thế làm
khó chịu, vẫn ôn hòa đáp lại:
- Thưa đại vương! Trước đây, khi còn là một đạo sĩ Bà La Môn, tôi cũng đã từng
có cái nhìn giống hệt như đại vương vậy, nhưng từ khi nghe được những lời chỉ
dạy của Đức Phật, tôi mới biết là mình đã có những nhận thức đầy sai lầm. Xã
hội phân ra có bốn giai cấp khác nhau chẳng qua là vì có các chứng nghiệp khác
nhau, đại khái như tôn giáo, chính trị, thương nghiệp, công nông v.v... Đó chỉ
là vấn đề phân công làm việc, tự chúng không có cao thấp, sang hèn. Nếu y cứ
vào đó để lập thành các giai cấp cao thấp, phân chia chủng tộc sang hèn thì
hoàn toàn là những lợi dụng vô lý và phi pháp. Bất cứ ở giới nào cũng có người
tốt kẻ xấu. Ngày nay, ngay trong dòng Bà La Môn cũng đầy dẫy những phần tử làm
nhiều việc xấu xa như tà dâm, giết người, và hầu hết đều là những người bảo
thủ, tà kiến. Vậy có thể bảo đó là những người tôn quí bậc nhất hay sao. Bởi
thế, sự tôn quí hay thấp hèn của con người không phải do chủng tộc hay giai cấp
cao thấp sinh ra. Bất luận là ở chủng tộc nào, hễ ai biết làm việc tốt, có công
phu tu học, có giác ngộ và chứng quả thì đều là người trong sạch, cao thượng,
đáng tôn quí.
Quốc vương nghe xong mấy lời này thì bừng tỉnh ngộ, tự nói với mình: “Đúng rồi,
ta thật quá sai lầm! Bao nhiêu nhà tù trong nước từ trước đến giờ chỉ dành để
giam cầm hạng Thủ Đà La, còn hạng Bà La Môn phạm tội thì không hề hấn gì cả.
Thật chẳng lấy làm lạ, tiếng oán than dẫy đầy trong dân chúng!”
Lòng hối cải đã lộ rõ trên nét mặt quốc vương. Thấy thế, tôn giả thuyết phục
thêm:
- Thưa đại vương! Vì vậy mà đại vương nên tin phụng và thực hành chánh pháp.
Phật là bậc đại giác ngộ, là bậc chí tôn trong đời. Chúng ta qui y làm đệ tử
của Người để tìm thấy con đường tự do giải thoát. Đó là hạnh phúc và vinh quang
tột của đời chúng ta.” (6)
Sáng suốt và linh hoạt thay lời giải đáp của Tôn Giả Ca Chiên Diên. Chính sự
phân tích có tính khách quan và hợp lý đó đã đem lại công lý, bình đẳng cho
Vương Quốc Ma Du La và xác định rõ một khuôn thước thẩm định giá trị của con
người qua phẩm hạnh đạo đức, qua những gì tốt lành cống hiến cho đời…vẫn còn
xác quyết cho tới ngày hôm nay.
h) Theo Đạo Phật, tôn giáo là nhằm giải thóat tâm linh cho con người, san bằng
bất công xã hội, giải trừ giai cấp. Tôn giáo không phải là một nghề nghiệp sinh
sống, không phải là một chức vụ để trả lương, không phải là một vị thế để hưởng
thụ. Tu sĩ phải là biểu tượng sống động của giáo lý cao thượng. Tu sĩ không
phải là một đẳng cấp siêu vượt trong xã hội. Tu sĩ phạm giới ngoại trừ sự trừng
phạt của giáo đoàn (nay là giáo hội), nếu phạm tội, phải chịu sự chi phối của
luật pháp không một miễn trừ nào. Nếu người đời xâm phạm tiết hạnh, hãm hiếp
phụ nữ trẻ em, bị trừng phạt như thế nào thì tu sĩ cũng bị trừng phạt như thế.
Sở dĩ tu sĩ được cúng dường và kính trọng là vì phẩm hạnh chứ không phải vì địa
vị, phẩm trật trong giáo hội. Tu sĩ chân chính không thể cười nói nhởn nhơ, ăn
mặc diêm dúa, nhảy múa, hớn hở bên rượu thịt…bởi vì những cái đó thuộc về thế
tục, không phải thánh đạo để mọi người sùng bái, quỳ lạy, dựng tháp miếu để
kính ngưỡng.
Chúng ta hãy nghe một đoạn đối đáp của Tôn Giả Ca Chiên Diên với
người bạn Lỗ Ê Giá – một trưởng giả của dòng Bà La Môn:
“Này người bạn hiền, xin hãy nghe lời tôi nói! Tín ngưỡng và sự tu hành của
chúng ta là nhằm mục đích giải thoát khỏi vòng sinh tử, để cho cuộc sống đạt
được an lạc, tự tại. Chúng ta đừng xem đó là một thứ nghề nghiệp để sinh sống.
Hiện nay, những tu sĩ Bà La Môn lìa bỏ gia đình để sống theo nếp sống phạm hạnh
của người tu hành chân chính phỏng có là bao! Mà phần đông họ đều chỉ có cái
hình tướng trá ngụy ở bề ngoài, cúng lễ tế tự cho người giống như việc kinh
doanh để sinh nhai, lấy tôn giáo làm cái chiêu bài để tranh dành đoạt lợi, cốt
thỏa mãn cái tư dục của mình; thật là đáng buồn! Tu sĩ Bà La Môn ngày nay đều
lo tìm những thứ gì ở ngoài Tâm, cũng chẳng phải mong cầu phước báo ở cõi Trời
hay cõi Người, mà chỉ toàn nói hươu nói vượn về những hiện tượng này nọ của vũ
trụ, nào có mấy người biết chính mình là ai!“ (7)
i) Sau hết, Đạo Phật là đạo duy nhất hoan nghênh mọi sự cật vấn, tranh luận mà
không sợ bị sa hỏa ngục hay can tội “phạm thánh”. Phạm trù của lý trí là phạm
trù cần tranh luận, bàn cãi cho ra lẽ. Nếu vấn đề đã thuộc về lý trí thì con
người có thể hội, có thể hiểu và lý giải được. Phạm trù của lý trí không có
ngằn mé, không cấm kỵ, không biên giới, không phân biệt tuổi tác, vị thế, màu
da, chủng tộc. Chính vì tôn trọng trí tuệ cho nên một trong ba lời nguyện mà
chư tăng/ni và Phật tử đọc tụng hằng ngày có câu:
Tự quy ý Pháp
Đương nguyện chúng sinh
Thấu rõ kinh tạng
Trí tuệ như biển
Như vậy theo tinh thần của Phật Giáo, đọc tụng, nghiên cứu kinh điển là để mở
mang trí tuệ rộng lớn như biển cả, chứ kinh điển Phật Giáo không phải là một
thứ bùa mê làm lu mờ trí tuệ, lú lẫn con người.
Còn phạm trù thần linh thì không có tranh luận, lý giải mà chỉ là sự tuân phục
và tin theo - dù rất phi lý và phi trí tuệ. Hễ không tin thì phải sa hỏa ngục.
Trong Đạo Phật, không hề có lời hăm dọa nào buộc tín đồ phải tuân theo lời Phật
dạy. Lời Phật dạy giống như một viên thuốc trị bệnh, không uống thì không hết
bệnh, chỉ có thế. Đức Phật luôn luôn nhắn nhủ hàng đệ tử cùng ngoại đạo đến vấn
hỏi là phải suy nghĩ cho thật kỹ những gì Phật nói. Nếu những điều đó tốt lành
cho mình, cho người thì mới tuân theo chứ đừng vội tin một cách mù quáng. Trong
những giờ phút cuối cùng trước khi Đức Thế Tôn nhập diệt tại rừng Sa La Song
Thụ, dù sức khỏe của Ngài rất suy yếu nhưng Ngài vẫn dành nhưng giây phút cuối
để cho các hàng đệ tử thưa thỉnh nhiều vấn đề chưa hiểu rõ hoặc còn hồ nghi.
Thậm chí có rất nhiều vị bồ tát đã vặn hỏi, cật vấn, đặt ngược vấn đề với Phật
mà Phật vẫn vui vẻ giải đáp thỏa đáng. Hãy cứ xem Kinh Đại Bát Niết Bàn thì rõ.
Từ những nhận định trên chúng ta có thể kết luận rằng Đạo Phật được xây dựng
trên nền tảng Trí Tuệ và Phật Giáo là đạo của Trí Tuệ. Cũng giống như Mặt Trời
chính là ánh sáng. Nền tảng Trí Tuệ chính là sinh mệnh của Phật Giáo. Khi Mặt
Trời tắt thì ánh sánh không còn. Xa lìa trí tuệ, bám víu vào hiện tượng trăng
sao, mưa gió của trời đất, khấn nguyện phép mầu, van vái Thần Linh, mê hoặc bởi
những lời sấm truyền vu vơ…hướng ngoại mà không hướng nội… là giết chết Phật
Giáo trên tự thân của nó. Thế nhưng nói Trí Tuệ thì phải hiểu đó là Trí Tuệ Rốt
Ráo, Trí Tuệ Bát Nhã, Trí Vô Sai Biệt hay Đại Viên Cảnh Trí. Khi đạt tới loại
Trí Tuệ này rồi thì Tâm Đại Bi hiển lộ. Trong Đạo Phật, Trí Tuệ và Từ Bi như
hình với bóng. Bi là Trí mà Trí cũng là Bi. Mất Trí Tuệ thì mất Đại Bi. Mất Đại
Bi thì cũng mất Trí Tuệ.
Vậy thì bạn ơi,
Hãy tôn thờ trí tuệ của con người
Nó như ngọn đuốc soi đường
Nó như bình minh trong đêm tối
Nó là nền hòa bình trong tương lai của nhân loại
Nó là nơi mà chúng ta có thể kết tình huynh đệ
Vậy hãy tin nơi sáng suốt của chính mình
Sự sáng suốt do nhận thức những gì chung quanh ta
Do cuộc sống này nảy sinh
Do kinh nghiệm học hỏi từ quá khứ
Từ những bậc thày giác ngộ (8)
Đừng tin những gì ở thần quyền
Qua sự diễn dịch của tầng lớp trung gian
Đừng tin những gì nơi thần linh, ma quỷ
Đừng vội tin những gì người ta nói
Đừng vội tin những lời truyền tụng vu vơ.
Đào Văn Bình
(California Tháng Tư năm 2555.PL tức năm 2011. TL)
(1) Phật Học Phổ Thông
(2), (3),(4), (5),(6) &(7) Bài “Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật” đăng trên mạng
lưới Hoằng Pháp Hà Nội
(8) Đức Phật là một vị đã giác ngộ và sau này tất cả những ai liễu ngộ được
chân lý của Đức Phật và tin theo cũng đều là các bậc giác ngộ
Gửi ý kiến của bạn
Đồng ý
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.